13/10/12

224. NOBEL VĂN CHƯƠNG 2012 - MẠC NGÔN

Đoàn Tử Huyến

Tác giả tiêu biểu của nền văn học Trung Quốc đương đại (17/02/1955 – ) Nhà văn, dịch giả Trung Quốc Mạc Ngôn được coi là một trong những tiểu thuyết gia lớn nhất của văn học Trung Quốc và được Hiệp hội Nhà văn Châu Á bình chọn là một trong những nhà văn có triển vọng nhất trong thế kỉ XXI. Sáng tác của ông là sự kết hợp giữa những thủ pháp của chủ nghĩa Hiện đại và bút pháp truyền thống, giữa cái huyền ảo và cái hiện thực, làm thay đổi diện mạo nền văn học đương đại Trung Hoa.



Mạc Ngôn (nghĩa là “Kiệm lời”) tên thật là Quản Mạc Nghiệp xuất thân từ một gia đình nông dân tại huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông. Năm 12 tuổi, gặp Cách mạng Văn hóa (1966 – 1976), ông phải bỏ dở tiểu học và tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn, đi chăn dê, luôn bị đói khát và cô đơn. Thời gian này, ông tự học và đọc sách rất nhiều, say mê tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” của Nikolai Ostrovski (Nga), “Rừng thẳm tuyết dày” của Khúc Ba, “Bài ca thanh xuân” của Dương Mạt, tiếp nhận các tác phẩm văn học Khai Sáng (thế kỉ XVIII) của Phương Tây….

Năm 1976, Quản Mạc Nghiệp nhập ngũ, nhờ tự bồi dưỡng trở thành giáo viên trong quân đội; năm 1984, ông trúng tuyển vào khoa Văn thuộc Học viện Nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986, rồi chuyển sang hoạt động trên lĩnh vực báo chí và viết văn chuyên nghiệp; từ năm 1988 – 1991 làm nghiên cứu sinh sáng tác thuộc Học viện Văn học Lỗ Tấn, trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Tuổi thơ chịu đựng đói nghèo, trải qua những lo lắng tủi nhục về miếng cơm manh áo trong thời kì kinh tế bần cùng, chính trị bất ổn khiến nhà văn tương lai có cái nhìn về cuộc đời và con người một cách chân thực và sâu sắc, ảnh hưởng rõ nét đến tính cách và sáng tác của ông.

Năm 1981: Bắt đầu sáng tác.

Năm 1981 Quản Mạc Nghiệp bắt đầu công bố các tác phẩm đầu tay, trong đó có “Sông khô” (Khô hà), “Thu thủy” , “Âm nhạc dân gian” (Dân gian âm lạc); tiếp đó ông viết “Sửu binh” (1982), “Vì con” (Vị liễu hài tử- 1982), “Đường lớn nhặt bông” (Thu miên đại lộ, 1983), “Gió thổi trên đảo” (Đảo thượng chi phong, 1984), “Sông ở trong mưa” (Vũ trung đích hà, 1984)… mô tả cảnh vật nông thôn cổ xưa qua lăng kính của tuổi thơ. Nhưng phải đến truyện dài “Củ cải đỏ trong suốt” (Thâu minh đích hồng la bốc, 1985), được đăng tải trên tạp chí Trung Quốc tác gia và in thành sách ở nhà xuất bản Tác gia xuất bản xã ông mới gây được sự chú ý trên văn đàn. Từ đây bắt đầu xuất hiện bút danh Mạc Ngôn do ông tách chữ Mạc trong tên ông có nghĩa là “cơ mưu” thành hai chữ  Mạc (không có) và Ngôn (lời nói), ngụ ý là không nên nói nhiều, như lời cha mẹ dặn.


Năm 1986, Mạc Ngôn cho ra mắt tiểu thuyết “Cao lương đỏ” gây xôn xao dư luận, được độc giả bình chọn là “Tác phẩm tôi yêu thích nhất năm 1986”. Đây là hồi ức của người xưng ''tôi'' kể về chuyện đời oai hùng và chuyện tình kì lạ của ông bà nội mình - Từ Chiếm Ngao và Đái Phượng Liên – trong bối cảnh của miền quê Cao Mật ở miền Nam Trung Hoa vào những năm 1920 - 1930. Cô gái xinh đẹp Phượng Liên vừa tròn mười sáu tuổi bị cha mẹ tham giàu gả cho con tài chủ họ Đơn bị bệnh hủi. Đoàn đưa dâu trên đường về nhà chồng gặp bọn cướp chặn đường, anh phu kiệu Từ Chiếm Ngao(2), vốn nguyên là thổ phỉ, đã dũng cảm chống trả; từ đó cô có cảm tình với anh. Hai đêm tân hôn với chồng, nhờ có con dao nhọn giấu sẵn trong người, cô vẫn giữ được mình trinh nguyên. Ba hôm sau, Từ Chiếm Ngao chặn đường bắt cóc Phượng Liên khi cô về thăm bố mẹ, và nghe tiếng gọi của tình yêu cuồng nhiệt, hai người ân ái giữa cánh đồng cao lương. Khi quân Nhật xâm lược kéo đến tàn phá quê hương, Từ Chiếm Ngao tập hợp nghĩa quân chống giặc, trở thành một Tư lệnh anh hùng của quân du kích. Phương Liên cũng trở thành du kích cùng chiến đấu bên cạnh Từ Chiếm Ngao, và một lần bà đã đón nhận cái chết thật nhẹ nhàng, thanh thản… Các nhân vật trong Cao lương đỏ đầy khí phách, sống ngang tàng và lạc quan như những ngọn cao lương vút thẳng tắp lên trên bầu trời Cao Mật - một nét điển hình sẽ lặp lại trong nhiều tác phẩm của Mạc Ngôn. Với họ, cao lương là cuộc sống, là khí trời, là tình yêu, là tất cả. Cao lương là nơi họ trở thành kẻ cướp, thổ phỉ, cũng là nơi họ trở thành anh hùng cứu quốc, là không gian để họ yêu, họ chết… Cao lương đỏ là tác phẩm thuộc dòng văn học "phản tư" của Trung Quốc, nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua, nhìn lại cha ông và nhìn lại chính mình và là cuốn sách mở đầu cho bộ tác phẩm “Gia tộc Cao lương đỏ” (Hồng cao lương gia tộc) gồm Cao lương đỏ, Rượu cao lương, Nhà quàn cao lương, Cẩu đao, Da chó. Tác phẩm được giải thưởng văn học Mao Thuẫn năm 1985 - 1986, giải thưởng văn học quốc tế của Italia năm 2005. Bộ phim cùng tên do Trương Nghệ Mưu chuyển thể từ tác phẩm này đã đoạt giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1994.

Năm 1987, truyện dài “Hoan lạc” của Mạc Ngôn đăng tải trên tạp chí Nhân dân văn học, kể về một thanh niên rời quê nhà ra thành phố, nơi diễn ra những niềm hoan lạc điên cuồng của thời mở cửa và cả những suy ngẫm của thân phận con người. Tác phẩm nhận được nhiều bình luận từ phía người đọc và nhà phê bình. Mùa thu cùng năm, tiểu thuyết “Châu chấu đỏ” (Hồng hoàng), một câu chuyện kì lạ và táo bạo về tính dục thể hiện một phong cách viết dữ dội và tinh thần mãnh liệt của ngòi bút tác giả. Châu chấu đỏ cùng với Cao lương đỏ, Củ cải đỏ trong suốt tạo thành bộ ba tác phẩm Mạc Ngôn tam hồng làm nên “hiện tượng Mạc Ngôn”.

Năm 1989 “Gặp lại chiến hữu” (Chiến hữu trùng phùng)(3) là tiểu thuyết viết về số phận những người lính trong cuộc chiến tranh nơi biên giới Trung - Việt. Năm 1893 là thời điểm ra đời một trong những tác phẩm được đánh giá cao của Mạc Ngôn là “Tửu quốc”.


Năm 1995: Tiểu thuyết “Phong nhũ phì đồn” (nghĩa là “Vú to mông nẩy”, khi dịch sang tiếng Việt do yêu cầu của cơ quan quản lí văn hóa dịch giả phải đổi thành “Báu vật của đời”) được trao giải thưởng cao nhất về truyện, nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học ở Trung Quốc. Tác phẩm khái quát cả một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng của đất nước Trung Hoa từ đầu thế kỉ XX tới những nãm mở cửa cuối thế kỉ thông qua số phận các thế hệ một gia đình. Lỗ Toàn Nhi là một cô gái nhà quê, 16 tuổi lấy chồng là Thượng Quan Thọ Hỉ; mẹ chồng khát cháu trai nối dõi tông đường nhưng vì chồng bất lực nên Lỗ Toàn Nhi lấy giống đàn ông thiên hạ sinh ra một đàn tám gái, một trai, với đủ mọi thành phần xã hội, đủ mọi giống người. “Phong nhũ phì đồn” là chỉ sự sinh sôi ấy; hình ảnh Lỗ thị là biểu tượng người phụ nữ Trung Quốc trong một xã hội vừa nhiễu nhương vừa coi rẻ nữ giới. Chỉ riêng với sự “phong phì” ấy Lỗ thị đã xứng đáng là một bà mẹ vĩ đại. Còn đám con, được sinh ra trong lúc đất nước đang cơn biến thiên, chia rẽ, họ mỗi người chọn một con đường, một cách sống, một cách chết, đồng lòng hoặc thù ghét nhau theo sự chọn lựa chính kiến trên đường đời khổ ải, nhưng họ có một điểm tựa chung là người mẹ Lỗ thị. Phong nhũ phì đồn ngợi ca thiên chức, ngợi ca cái đẹp của người phụ nữ. Hình ảnh những bầu vú hiện ra khi đứa con trai Kim Ðồng nằm canh mộ mẹ ngước nhìn lên trời gợi nên suy ngẫm “Báu vật trên trời là mặt trời mặt trăng và những vì sao. Báu vật của đời là vú to mông nẩy” – có thể nói, cả lịch sử đất nước được nhà văn tóm gọn trong bốn chữ ấy - phong nhũ phì đồn! Trong tác phẩm này, Mạc Ngôn sử dụng thủ pháp nghệ thuật hòa quyện giữa hiện thực và hư ảo với chằng chịt những mối quan hệ giữa các nhân vật.  

(…) 

Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Việt và được đón nhận nồng nhiệt:

- Cao lương đỏ, Lê Huy Tiêu dịch, tái bản nhiều lần.

- Báu vật của đời, Trần Đình hiến dịch, tái bản nhiều lần.

- Đàn hương hình, Trần Đình Hiếu dịch, tái bản nhiều lần.

- Rừng xanh lá đỏ, Trần Đình Hiến dịch, NXB Văn Học, 2003.

- Tửu quốc, Trần Đình Hiến dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2004

- Tạp văn Mạc Ngôn, Võ Toán dịch, NXB Văn Học, 2005.

- Chuyện văn và đời, Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Lao động, 2005.

- Sống đọa thác đày, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Phụ Nữ, 2007.

- Thập tam bộ, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn nghệ Tp. HCM, 2007.

- Con đường nước mắt, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.

- Ma chiến hữu, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.

- Bạch miên hoa, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.

- Hoan lạc, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.

 

            (Nguồn: trannhuong.com)

           
             Bài liên quan: NOBEL văn chương 2011 - Tomas Transtroemer

Không có nhận xét nào: